(TGNB) – Thức ăn tươi sống, bao gồm thức ăn cho tôm bố mẹ và ấu trùng như tảo tươi và Artemia … rất quan trọng đối với sự tăng trưởng của tôm giống. Tuy nhiên, đây cũng là phương thức phổ biến truyền mầm bệnh trực tiếp cho tôm giống, nếu không rửa sạch nên chọn nguồn thức ăn tiệt trùng trước khi sử dụng.
Nội dung bài viết
Rủi ro về an toàn sinh học
Hầu hết người nuôi tôm đều hiểu rủi ro về an toàn sinh học khi di chuyển tôm sống (cả tôm bố mẹ và con giống) từ nước này sang nước khác hoặc từ vùng này sang vùng khác, nhưng các vấn đề an toàn sinh học là khác nhau đối với từng giai đoạn của tôm. Thức ăn và thực hành quản lý thức ăn liên quan đến sản xuất, bao gồm thức ăn cho tôm bố mẹ, tôm giống, tôm giống và tôm thương phẩm, thường chưa được hiểu rõ. Trên toàn cầu, người nuôi tôm sử dụng nhiều hệ thống sản xuất thức ăn và thức ăn khác nhau, chẳng hạn như thức ăn đánh bắt tự nhiên hoặc thức ăn nuôi, thức ăn tươi sống hoặc thức ăn chế biến (Artemia, nauplii, thức ăn tinh). xác, hàu, nghêu, cua và động vật có vỏ, vi sinh vật hoặc sinh học và thức ăn tổng hợp được pha chế và sản xuất dưới dạng thức ăn ép hoặc viên).
Thức ăn tươi sống và chưa qua chế biến (hai mảnh vỏ và giun nhiều tơ, nhuyễn thể chưa qua xử lý và Artemia bị ô nhiễm) đặc biệt ở giai đoạn tôm, ví dụ tôm bố mẹ, ấu trùng tôm và tôm thương phẩm. Một số bằng chứng đáng kể cho thấy thức ăn tươi sống có thể gây ra rủi ro an toàn sinh học cao do tiềm năng đưa mầm bệnh vào trang trại nuôi tôm như: hội chứng đốm trắng (WSSV), vi rút hoại tử cơ quan tạo máu dưới da (HHNBV), vi rút hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô (IHHNV) , bệnh hoại tử gan cấp tính (AHPND) và các bệnh ký sinh trùng.
Kiểm soát nguồn thức ăn tươi sống
Nguồn thức ăn tươi sống là một trong những nguồn mầm bệnh xâm nhập trực tiếp vào hệ thống sản xuất. Vì vậy, việc lựa chọn và chất lượng thức ăn tươi sống quyết định chặt chẽ sự thành bại của con giống: tảo tươi là thành phần thức ăn tươi sống bắt buộc trong giai đoạn Zoae 1 – Zoae 3 và được duy trì cho đến cuối giai đoạn Mysis. Các mô hình nuôi trồng sinh khối tảo thường phải đối mặt với thách thức ghê gớm về ô nhiễm, có thể phát sinh bất kể trại giống xử lý nước như thế nào.
Khi tảo bị ô nhiễm, chất lượng của tảo bị ảnh hưởng rất nhiều, ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của ấu trùng. Ví dụ điển hình, khi các mẫu tảo bị nhiễm động vật nguyên sinh (nhiều loài Monomonas) được kiểm tra bằng kính hiển vi, 90% tế bào tảo đã bị tiêu diệt từ 12 đến 18 giờ sau khi phát hiện nhiễm bẩn.
Tuy nhiên, màu sắc của hồ tảo vẫn bình thường, không thể đánh giá tảo nhiễm bằng mắt thường. Trong trường hợp này, vi tảo đã bị nhiễm ký sinh trùng “diệt trừ” và không thể làm thức ăn tươi sống cho ấu trùng (Baptist, 1993). Trong trường hợp không có hệ thống tảo tươi, quản lý vệ sinh kém có thể dễ dàng lây nhiễm động vật nguyên sinh, vibrio và nấm. Vì vậy, cần kiểm tra chất lượng trước khi bổ sung tảo tươi vào bể nuôi ấu trùng, đặc biệt là giai đoạn Zoea. Hệ thống nuôi khép kín không hoàn toàn giúp vi tảo tránh được sự ô nhiễm mà chỉ hạn chế sự ô nhiễm bởi tảo hoặc các vi sinh vật không mong muốn. Các hệ thống nuôi cấy kín bị ô nhiễm thường khó xử lý vì diện tích bề mặt lớn và nhiều “ngóc ngách” nơi vi sinh vật có thể cư trú (De Pauw N, 1984).
Artemia có sẵn từ giai đoạn 3 của Zoea. Artemia rất dễ bị nhiễm vi khuẩn Vibrio nếu không được rửa sạch. Trước khi cho tôm giống ăn, việc cho ăn Artemia cần đảm bảo an toàn sinh học. Tiệt trùng trong quá trình ấp Artemia: Ngâm trứng trong nước ngọt khoảng 1 giờ để hút ẩm. Sau đó ngâm 1 lít nước Zaven 10% vào 1 lọ dung dịch tẩy Zaven với nồng độ 1 lon Artemia hoặc dùng clorin nồng độ 200 ppm trong khoảng 20 – 30 phút hoặc khi quan sát trứng có màu vàng cam là được.
Tiếp theo, rửa sạch nhiều lần bằng nước ngọt hoặc nước biển, sau đó lọc trứng qua lưới 125 µm. Trứng Artemia được bóc vỏ và cho vào dung dịch Thiosulfat 0,05% trong 2 – 5 phút, rửa lại bằng nước sạch cho nở, hoặc bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 160 ° C thời gian bảo quản tối đa là 3 ngày.
Trứng sau khi khử trùng được cân theo tỷ trọng và cho vào lồng ấp hình nón với nước biển lọc mặn 15-30 ‰. Sục khí mạnh mẽ cung cấp oxy và kích động, thúc đẩy trứng hấp thụ nước và kích thích sự phát triển của phôi thai. Sau 24 – 36 giờ, trứng sẽ nở. Sau khi nở, ấu trùng Artemia (nauplii) được tách ra khỏi các chất thải khác như nang rỗng, nang chưa vỡ, cặn bã và các vi sinh vật khác…) Một số trại nuôi sử dụng hoạt chất i-ốt để rửa Artemia khi thu hoạch. Thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ như mực và hàu có thể được sử dụng từ các nguồn không có mầm bệnh cụ thể, hoặc rửa dưới vòi nước chảy trong quá trình chế biến thức ăn tươi sống hoặc làm đông lạnh trước khi sử dụng.
Không nên dự trữ quá nhiều thức ăn tươi sống trong kho, đồng thời đảm bảo thức ăn tươi sống không bị thiếu hụt trong quá trình sản xuất. Tất cả thức ăn tươi sống nên được bảo quản trong tủ lạnh đặt trong khu vực tôm bố mẹ. Thức ăn tươi sống cũ nên dùng trước thức ăn tươi sống mới. Xác định lượng thức ăn tươi sống cần sử dụng theo bàn ăn và có được lượng chế biến phù hợp. Trong trường hợp nhuyễn thể đông lạnh, chúng phải được rã đông, cân và cho vào khay ăn riêng.
Đối với mực, không cần rã đông hoàn toàn. Cắt mực tươi hoặc mực đông lạnh thành những miếng vuông cỡ 5cm. Sau đó cân và phân chia theo khẩu phần của mỗi bể khác nhau. Khu vực chế biến là nơi chế biến tất cả thực phẩm, vì vậy vấn đề vệ sinh của khu vực này cần được quan tâm. Giữ thiết bị và khu vực chế biến sạch sẽ có thể làm giảm đáng kể nguy cơ lây truyền bệnh. Dụng cụ cắt, bề mặt cắt và hộp đựng thức ăn tươi sống phải được khử trùng và làm khô. Tất cả các thiết bị tiếp xúc với hệ thống nuôi cấy cần phải được làm sạch, khử trùng và làm khô. Cần chuẩn bị một thùng chứa clo (540 ppm) trong khu vực chế biến để khử trùng từng dụng cụ và khay đựng thức ăn tươi sống.
→ Người nuôi tôm phải cố gắng duy trì chất lượng nước tối ưu cho vật nuôi của họ, bao gồm nồng độ oxy hòa tan> 4 mg / L và nhiệt độ nước từ 28 – 30 ° C, sử dụng các phương pháp cho ăn ít và nhiều lần trong ngày để tránh cho ăn quá nhiều và ô nhiễm nước; cần thiết lập và duy trì hồ sơ theo dõi, giám sát việc sử dụng thức ăn thủy sản và tính toán hiệu quả sử dụng thức ăn. Điều quan trọng là phải đảm bảo rằng thức ăn tươi sống và phương thức quản lý trang trại không phải là điểm xâm nhập của các mầm bệnh tiềm ẩn vào tôm và các cơ sở nuôi.
THẾ GIỚI NANO BẠC